Bài soạn văn “Hịch tướng sĩ” lớp 8 ngắn nhất nhưng vẫn đầy đủ ý dưới đây sẽ giúp các em học sinh nắm được những nét chính về tác giả Trần Quốc Tuấn và kiệt tác chính luận “Hịch tướng sĩ” cùng với tinh thần yêu nước nồng nàn, ý chí quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược của dân tộc ta thời nhà Trần.
I. Khái quát chung về tác phẩm Hịch tướng sĩ và tác giả Trần Quốc Tuấn
1. Tác giả Trần Quốc Tuấn
– Trần Quốc Tuấn (1231 – 1300) tức Hưng Đạo Vương, là vị danh tướng kiệt xuất của dân tộc Việt Nam.
– Ông là người văn võ song toàn, có công lớn trong cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1287 – 1288).
– Đời vua Trần Anh Tông, ông về sống tại Vạn Kiếp (nay là xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) và mất ở đây. Nhân dân tôn ông là Đức Thánh Trần và lập đền thờ ở nhiều nơi trong cả nước.
– Tháng 2/1984, ông được Hội đồng Khoa học Hoàng gia Anh phong là một trong mười vị tướng tài của thế giới.
– Tác phẩm chính: Binh thư yếu lược và Vạn Kiếp tông bí truyền thư đã bị thất lạc.

2. Văn bản Hịch tướng sĩ
– Tên chữ Hán của văn bản là “Dụ chư tì tướng hịch văn“.
– Văn bản được viết vào khoảng trước cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông lần thứ hai (1285). Theo cuốn “Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam” (xuất bản năm 1987), bài hịch này được công bố vào tháng 9/1284 tại cuộc duyệt binh ở phía Đông thành Thăng Long.
– Văn bản được viết theo thể hịch – một thể loại văn nghị luận do vua chúa, tướng lĩnh viết nhằm khích lệ tinh thần chiến đấu chống thù trong giặc ngoài của binh sĩ. Hịch thường có có lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, dẫn chứng thuyết phục.
– Một bài hịch thường có 4 phần: phần mở đầu nêu ra vấn đề; phần hai nêu truyền thống vẻ vang trong sử sách; phần ba nêu nhận định tình hình, phân tích phải trái; phần cuối nêu ra chủ trương, kêu gọi đấu tranh.
– Hào khí Đông A chính là cảm hứng chủ đạo để Trần Quốc Tuấn viết bài hịch này. Sát Thát (giết giặc Mông) là tinh thần chung, ý chí nguyện vọng chung của quân và dân nhà Trần trong ba cuộc kháng chiến chống Nguyên – Mông. Bài hịch được viết ra nhằm khích lệ các tướng sĩ nhà Trần nêu cao tinh thần yêu nước và cố gắng học tập “Binh thư yếu lược“.

II. Soạn văn Hịch tướng sĩ ngắn nhất
1. Đặc điểm của văn nghị luận trong văn bản
– Bài hịch bàn đến một vấn đề quan trọng và có tính cấp bách đối với toàn dân tộc: âm mưu xâm lược của giặc Nguyên – Mông và trách nhiệm của tướng sĩ nhà Trần.
– Bài hịch có luận đề và hệ thống luận điểm rõ ràng, lí lẽ, bằng chứng cụ thể, xác đáng, tiêu biểu.
+ Luận đề: Khơi dậy tinh thần yêu nước, ý thức trách nhiệm của tướng sĩ nhà Trần với vận mệnh đất nước trước âm mưu của kẻ thù xâm lược.
+ Các luận điểm:
- Luận điểm 1 (Từ đầu đến “còn lưu tiếng tốt”): Nêu gương các trung thần nghĩa sĩ trong sử sách.
- Luận điểm 2 (Tiếp đến “ta cùng vui lòng”): Tình hình đất nước và nỗi lòng của vị chủ tướng.
- Luận điểm 3 (Tiếp đến “đầu các ngươi muốn vui chơi phòng có được không?”): Phân tích phải trái, chỉ rõ đúng sai cho các tướng sĩ.
- Luận điểm 4 (Còn lại): Thúc tỉnh trách nhiệm và kêu gọi tướng sĩ học tập “Binh thư yếu lược”.
2. Đọc hiểu nội dung văn bản
2.1. Gương các anh hùng nghĩa sĩ trong sử sách
– Mở đầu, tác giả nêu ra hàng loạt tấm gương trung thần nghĩa sĩ hi sinh vì chủ, vì nước như: Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Vương Công Kiên, Cảo Khanh, Cốt Đãi Ngột Lãng, Xích Tu Tư, Dự Nhượng, Kính Đức, Thân Khoái.
– Tác giả sử dụng biện pháp liệt kê, nêu tên tuổi và chiến công của các vị anh hùng nghĩa sĩ theo trình tự thời gian, từ xa đến gần. Đó đều là các vị tướng nổi tiếng trong lịch sử phong kiến Trung Hoa, thậm chí có cả tấm gương tướng sĩ nhà Nguyên – kẻ thù đang xâm lược nước ta. Với thái độ ngợi ca, kính trọng, Trần Quốc Tuấn đã mượn những tấm gương đó như một chiêu “khích tướng” để khơi dậy lòng tự trọng, tôn trọng của các tướng sĩ nhà Trần, khích lệ tinh thần trung quân ái quốc, ý chí lập công danh của họ.
2.2. Tình hình đất nước và tội ác của giặc
a. Tình hình đất nước
– Đất nước đang ở “thời loạn lạc”, “buổi gian nan” khi giặc Nguyên – Mông lăm le phạm bờ cõi.
– Chân dung của kẻ thù được tác giả lột tả cụ thể, chân thực:
+ Hành động ngang ngược: coi thường triều đình: “Sứ giặc đi lại nghênh ngang, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ“.
+ Tham lam, tàn bạo: “thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa”; “giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn“.
– Tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh và vật hóa hình ảnh kẻ thù: “Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau?“, qua đó bộc lộ nỗi căm tức, khinh bỉ đang trào dâng trong từng lời, từng chữ.
→ Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra nỗi nhục khi chủ quyền đất nước bị xâm phạm. Việc vạch trần bộ mặt xấu xa và tội ác của đám lính sú vật ấy chính là cách để ông thổi bùng lên ngọn lửa căm thù giặc đang cháy trong huyết quản của các binh sĩ.
b. Tâm trạng của vị chủ tướng
– Trần Quốc Tuấn bộc lộ trực tiếp nỗi đau xót, lo lắng trước vận mệnh của đất nước, sự căm giận khi chưa trả thù, rửa nhục được cho dân tộc: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù“. Mỗi câu, mỗi chữ của Trần Quốc Tuấn như dồn nén cảm xúc. Việc sử dụng hàng loạt động từ mạnh cùng những hình ảnh ấn tượng trưng như “xả“, “lột“, “nuốt“, “uống” giúp người đọc có thể cảm nhận được nỗi căm hờn đang sôi sục trong huyết quản của tác giả, chảy tràn cả trên trang giấy.
– Ông còn bày tỏ nguyện vọng sẵn sàng hi sinh để rửa mối nhục cho đất nước: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng“.
→ Bằng câu văn biền ngẫu nhịp nhàng, cân xứng, toàn bộ bút lực, cảm xúc của Trần Quốc Tuấn đã dồn cả vào đoạn văn đầy xúc động này. Người đọc có thể hình dung được hình ảnh một vị chủ tướng đang đau đớn trước hiện tình đất nước, căm thù giặc đến bầm gan tím ruột. Từng chữ như được viết lên bằng máu và nước mắt của ông. Đoạn văn làm lay động lòng người, tạo sự đồng cảm cho người đọc, người nghe.
>>> Tải bài soạn văn dưới dạng file PDF miễn phí tại đây!
2.3. Phân tích phải trái, chỉ rõ đúng sai cho tướng sĩ
a. Ân tình của chủ tướng với binh sĩ
– Giữa Trần Quốc Tuấn và tướng sĩ không chỉ là quan hệ thần – chủ mà còn là những người đồng cam cộng khổ.
– Trong quan hệ thần – chủ, giữa họ có sự gắn bó khăng khít, luôn quan tâm và chia sẻ: “Không có mặc thì ta cho áo; không có ăn thì ta cho cơm; quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng; đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa…“. Đoạn văn cho thấy Trần Quốc Tuấn luôn đối xử hậu hĩnh với bề tôi. Ấy là một ân tình mà những kẻ bề tôi phải đền đáp.
– Họ còn là những người đồng cam cộng khổ: “Lúc xông pha trận mạc thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cười“. Khi ấy, họ không còn là thần – chủ nữa mà đã trở thành tình thâm, cốt nhục.
→ Việc nhắc đến mối ân tình như anh em ruột thịt đã khơi dậy ý thức trách nhiệm của tướng sĩ với chủ tướng, ý thức trách nhiệm của kẻ thần tử với vận mệnh đất nước.
b. Chỉ ra thái độ và hành động sai trái của tướng sĩ
– Đầu tiên, Trần Quốc Tuấn chỉ ra thái độ bàng quan, vô trách nhiệm của quân sĩ trước cảnh đất nước lâm nguy: “Nay các người nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn.”
– Ông cũng nghiêm khắc phê phán thói hưởng lạc, ham chơi của một số binh sĩ: “Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển; hoặc vui thú vườn tược, hoặc quyến luyến vợ con; hoặc lo làm giàu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh; hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát.“
– Bằng giọng điệu mỉa mai, chế giễu, ông đã chỉ cho họ thấy những thú vui đó sẽ lại hậu quả khôn lường:
+ “Nếu giặc Mông Thát tràn sang thì cựa gà trống không thể đem dùng mà đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể làm mưu lược nhà binh; chén rượu ngon không làm cho giặc say chết; chó săn tuy khỏe không đuổi được quân thù…“. Những lời nói mỉa mai, chế giễu ấy như sự kích động khiến cho các tướng sĩ muốn mặc áo giáp để xông ra trận chống tổ tàn nòng và phẩm chất của mình.
+ “Chẳng những thái ấp của ta không còn mà bổng lộc các ngươi cũng mất; chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các người cũng khốn; chẳng những xã tắc, tông miếu ta bị giày xéo, mà phần mộ tổ tiên các người cũng bị quật lên; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khôn rửa, tên xấu còn lưu, mà đến gia thanh các người cũng không khỏi mang tiếng là tướng bại trận“. Ông đã cho thấy về chủ tướng và tướng sĩ luôn đi liền với nhau, nghĩa là những việc làm của tướng sĩ không chỉ để lại hệ lụy cho bản thân mà còn ảnh hưởng tới người khác. Với những ân tình như đã nói ở trên, lẽ nào họ có thể không suy nghĩ, hổ thẹn?
+ Câu hỏi “Lúc bấy giờ, đầu các người muốn vui chơi phòng có được không?” cũng góp phần khẳng định: nếu cứ quen thói tư duy, cách sống tầm thường ấy thì việc nước mất nhà tan, thất bại thảm liệt là điều không tránh khỏi. Điều này sẽ thúc giục họ hành động, thúc giục thay đổi cách nghĩ, cách sống.
– Các cụm từ “không biết tức, không biết căm, không biết lo…” cho thấy thái độ gắn như mắng nhiếc của Trần Quốc Tuấn với thuộc tướng của mình. Tuy nhiên, đằng sau thái độ ấy là tình cảm chân thành, tha thiết: “đau xót biết chừng nào!“. Lời văn thống thiết, có sức lay động trái tim của binh sĩ.
→ Bằng phép điệp ngữ, liệt kê, nghệ thuật tăng tiến cùng các câu văn biền ngẫu nhịp nhàng, giọng điệu phê phán vừa gay gắt, nghiêm khắc, vừa như những lời tâm sự thống thiết của một người cha với những đứa con của mình, Trần Quốc Tuấn đã khơi gợi tinh thần yêu nước, ý thức trách nhiệm, lòng tự trọng của tướng sĩ. Từ đó, khiến họ phải thay đổi thái độ, thay đổi cách sống để bảo vệ Tổ quốc trước cảnh nguy nan.
c. Định hướng cho họ hành động đúng
– Ông nhắc nhở các tướng sĩ cần nâng cao cảnh giác trước âm mưu thâm độc của kẻ thù thông qua hai điển cố “Đặt mồi lửa vào dưới đống củi” và “Kiềng canh nóng mà thổi rau nguội“; khuyên họ nên ra sức rèn luyện binh sĩ, luyện tập võ nghệ để “người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ“.
– Lợi ích của việc làm đó là: “Như vậy, chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền, mà bổng lộc các người cũng đời đời hưởng thụ; chẳng những gia quyến của ta được êm ấm gối chăn, mà vợ con các người cũng được bách niên giai lão; chẳng những tông miếu của ta sẽ được muôn đời thờ lễ, mà tổ tông các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm; chẳng những thân ta kiếp này được đắc chí, mà đến các người trăm năm về sau tiếng vẫn lưu truyền; chẳng những danh hiệu của ta không bị mai một, mà tên họ các người cũng sử sách lưu thơm.”
– Tác giả lập lại cấu trúc của đoạn văn trên và cũng vẫn sử dụng biện pháp điệp ngữ, liệt kê – tăng tiến nhưng nội dung thì hoàn toàn trái ngược. Nếu đoạn văn trên là hậu quả thảm khốc, đau đớn thì đây lại là viễn cảnh huy hoàng, vẻ vang, tiếng tốt lưu truyền ngàn đời. Cấu trúc này tạo ra hai hoàn cảnh đối lập nhau: thất bại thì thê thảm, nhục nhã muôn đời; thắng lợi thì cuộc sống hạnh phúc, sum vầy, tiếng thơm lưu mãi ngàn năm.
– Đoạn văn trên, tác giả sử dụng hàng loạt các từ như “cũng mất, không còn, cùng không, bị tan, cùng bị…” thì ở đoạn văn này, tác giả lại khẳng định: “mãi mãi vững bền, đời đời hưởng thụ, sử sách lưu thơm…”. Sự đối lập ấy giúp cho tướng sĩ có thể nhìn rõ đúng sai từ đó hành động cho đúng.
– Hậu quả cũng giống như thành quả, luôn có sự gắn kết chặt chẽ giữa chủ tướng và tướng sĩ. Sự nhục – vinh, mất – còn đều đi đôi với nhau. Điều đó khẳng định: việc chiến đấu chống giặc không chỉ vì xã tắc, vì vua, trả nợ ân tình cho chủ tướng mà còn vì chính bản thân, gia đình mỗi người lính.
– Hai câu hỏi cuối đoạn giống hệt nhau. Câu hỏi ở đoạn dưới chỉ thêm từ “không” xoáy sâu vào tâm trí binh lính như một sự thật hiển nhiên không thể nào khác được.
→ Bằng việc lập lại cấu trúc như đoạn văn trước đó, Trần Quốc Tuấn đã vạch ra hai viễn cảnh hoàn toàn trái ngược nhau giữa việc thờ ơ, trốn tránh để chịu thua giặc và tăng cường luyện tập để chiến thắng kẻ thù. Điều này giúp tướng sĩ có thể nhìn nhận ra ngay được đúng sai và từ đó thay đổi cách sống, cách nghĩ trước hoàn cảnh nguy nan của đất nước.
2.4. Lời kêu gọi tướng sĩ
– Trần Quốc Tuấn kêu gọi binh sĩ học tập “Binh thư yếu lược” – cuốn sách về nghệ thuật quân sự do đích thân ông biên soạn.
– Phần cuối của bài hịch vạch rõ hai con đường sống và chết, chính và tà để thuyết phục tướng sĩ với thái độ dứt khoát.
+ Nếu “theo lời dạy bảo của ta“, học theo “Binh thư yếu lược” thì mới “phải đạo thần chủ“.
+ Nếu “trái lời dạy bảo của ta tức là kẻ nghịch thù“.
– Tác giả giải thích rõ ràng bởi giặc với ta không đội trời chung, nếu không lo trừ hung, biết rửa nhục thì chẳng khác nào đầu hàng giặc.
– Lời kêu gọi dứt khoát, kiên quyết ấy sẽ loại bỏ sự trù trừ, do dự của tướng sĩ để họ quyết tâm đứng trong hàng ngũ chiến đấu bảo vệ đất nước.
– Câu văn cuối cùng “Ta viết ra bài hịch này để các ngươi biết bụng ta” trở lại giọng điệu tâm tình như lời tâm sự, bày tỏ gan ruột của vị chủ tướng với tướng sĩ của mình.
→ Bằng lời văn mạnh mẽ, dứt khoát, Trần Quốc Tuấn vạch ra hai con đường mà binh sĩ có thể lựa chọn: một là chết hai là sống, một là phải đạo thần chủ hoặc trở thành kẻ nghịch thù. Lời lẽ mạnh mẽ nhưng vẫn chất chứa yêu thương của một vị tướng đại tài hết lòng vì nước vì dân.
III. Tổng kết
1. Nghệ thuật
– “Hịch tướng sĩ” có lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, dẫn chứng cụ thể, rõ ràng nhằm xác lập và làm rõ luận điểm.
– Các phép lập luận chứng minh, so sánh, bác bỏ rất sắc sảo, chặt chẽ, tập trung vào nhiều phương diện.
– Lời văn thống thiết, kết hợp giữa lí lẽ sắc bén, đanh thép với giọng điệu chân thành, nhiều cảm xúc.
– Sử dụng lời văn thể hiện tình cảm yêu nước mạnh liệt, chân thành, gây xúc động trong lòng người đọc.
2. Nội dung
“Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn phản ánh tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thể hiện qua lòng căm thù giặc, ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược.
Hy vọng bài Soạn văn “Hịch tướng sĩ” lớp 8 ở trên đã giúp các em nắm vững được nội dung và nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm, hiểu rõ hoàn cảnh ra đời, mục đích viết hịch cũng như tâm huyết của vị chủ tướng Trần Quốc Tuấn, từ đó thêm yêu mến và trân trọng tinh thần yêu nước, ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của cha ông ta.
Để học tốt hơn và nắm vững kiến thức Ngữ Văn 8 một cách hệ thống, phụ huynh và các em học sinh có thể tham khảo bộ sách “Làm chủ kiến thức Ngữ Văn bằng sơ đồ tư duy lớp 8 (Tập 1 và Tập 2)”. Với cách trình bày bằng sơ đồ tư duy khoa học, dễ nhớ, cuốn sách sẽ giúp các em học nhanh – nhớ lâu, ôn tập hiệu quả và đạt kết quả cao trong môn Ngữ Văn.
Link đọc thử sách: https://drive.google.com/file/d/1IW8jEFiXWUJSeF7YEEO0N8c3p_ChO1Gw/view?usp=sharing
Tkbooks tự hào là nhà xuất bản sách tham khảo lớp 8 hàng đầu tại Việt Nam!