Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) lớp 8 là yêu cầu trong bài học số 4 – Tiếng cười trào phúng trong thơ mà các em sẽ được học ở cuối học kì I.
Trong bài viết dưới đây, Tkbooks sẽ hướng dẫn các em cách viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) lớp 8 qua việc tìm ý, lập dàn ý và tham khảo bài văn mẫu.
Cùng theo dõi nhé!
I. Yêu cầu cần đạt khi viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học
– Giới thiệu tác giả và bài thơ, nêu ý kiến chung của người viết về bài thơ.
– Chỉ ra được nội dung trào phúng của bài thơ, từ đó làm rõ chủ đề.
– Phân tích được những đặc sắc về nghệ thuật: cách lựa chọn hình ảnh, các biện pháp tu từ, các từ ngữ độc đáo, giọng điệu.
– Xác định được giá trị trào phúng, giọng điệu trào phúng và ý nghĩa của bài thơ.
II. Hướng dẫn viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng)
1. Bước 1: Chuẩn bị
1.1. Lựa chọn đề tài
Thống kê các bài thơ trào phúng mà em đã đọc hoặc đã học, lựa chọn một bài thơ mà em cảm nhận rõ nhất về ý nghĩa của tiếng cười để phân tích.
1.2. Tìm ý
Để tìm ý cho bài văn phân tích một bài thơ trào phúng, chúng ta cần thực hiện một số nội dung:
– Xác định bố cục và nội dung chính từng phần của bài thơ.
– Xác định đối tượng của tiếng cười trào phúng trong tác phẩm.
– Tìm hiểu các phương tiện nhà thơ sử dụng để gây cười, các biện pháp tu từ,…
– Tìm hiểu thêm về tác giả, tác phẩm và hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm để mở rộng khi phân tích.
1.3. Lập dàn ý
a. Mở bài
– Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
– Nêu cảm nghĩ chung về tác phẩm.
b. Thân bài
– Có thể chọn một trong hai cách: phân tích theo bố cục của bài thơ, phân tích theo các phương diện nội dung và nghệ thuật, qua đó làm rõ được đối tượng trào phúng, ý nghĩa của tiếng cười trào phúng.
c. Kết bài
Khái quát giá trị của tác phẩm và cảm nghĩ của người viết.
II. Bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) mẫu
Phân tích bài thơ “Tiến sĩ giấy” của Nguyễn Khuyến
“Tiến sĩ giấy” (Ông nghè tháng tám) là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ trào phúng nhẹ nhàng nhưng vô cùng sâu cay của Nguyễn Khuyến.
Tiến sĩ là học vị đem đến vinh quang không chỉ cho bản thân mà còn mang đến niềm hạnh phúc cho cả dòng họ, quê hương, đất nước. Trong lịch sử khoa bảng, rất nhiều vị tiến sĩ đã trở thành rường cột của đất nước. Thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, chế độ khoa bảng xuống cấp nghiêm trọng. Người ta có thể dùng tiền để mua bán, đổi chác mọi thứ. Vì thế, xã hội xuất hiện nhiều kẻ chỉ có hư danh mà không hề có thực tài. Là người đỗ đầu ba kỳ thi, Nguyễn Khuyến cảm thấy đau xót trước thực trạng đó mà viết lên bài thơ.
Thoạt nhìn, bài thơ đề cập đến một trong những đồ chơi dân gian thường được làm vào mỗi dịp tết trung thu – tiến sĩ giấy – món đồ chơi nhằm khuyên khích tinh thần học tập của trẻ để có thể đem tài năng của mình cống hiến cho đất nước. Ở hai câu đề, Nguyễn Khuyến miêu tả hình ảnh của “ông nghè” với đầy đủ cờ, biển, cân đai, lọng xanh…
Cũng cờ, cũng biển, cùng cân đai
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Ảnh minh họa cho bài thơ trào phúng Ông Nghè của nhà thơ Nguyễn Khuyến
Ông nghè ấy cũng mang tấm biển “ân tứ vinh quy”, cũng oai phong lẫm liệt trong chiếc áo chầu có cân, đai vô cùng cao sang mà vua ban cho những người đỗ tiến sĩ để vinh quy bái tổ. Đáng lẽ, ông nghè phải được kính mến, trọng vọng. Nhưng qua biện pháp lập cấu trúc với điệp ngữ “cũng” (chỉ sự vật giống nhau), ta thấy rõ sự mỉa mai của nhà thơ bởi nó làm cho người ta có cảm giác nghi hoặc về một ông nghè giả. Đặc biệt, cụm từ “có kém ai” làm lộ ra cái vẻ giả dối, học đòi của cái thứ giống “ông nghè”. Đọc câu thơ, độc giả có thể nhìn thấy nụ cười châm biếm của tác giả ẩn sau con chữ bởi ông “tiến sĩ giấy” ấy giống hệt ông “tiến sĩ thật” nhưng bên trong thì rỗng tuếch, chẳng có gì.
Ở hai câu thực, ta thấy các cặp hình ảnh rất đặc sắc: “mảnh giấy” – “thân giáp bảng”, “nét son” – “mặt văn khôi”:
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.
Cái “thân giáp bảng” của ông tiến sĩ chỉ được làm bằng một tờ giấy. Còn khuôn mặt văn nhân nhờ nhà kia chắc chỉ được tạo bằng một nét son vẽ. Sự song hành giữa một thứ cao quý với một vật tầm thường, nhỏ bé làm cho độc giả có cảm giác việc tạo nên một ông tiến sĩ thật quá đơn giản. Điều đó cũng cho thấy, giá trị của vị tiến sĩ ấy thật rẻ mạt.
Nhà thơ mượn hình ảnh món đồ chơi ông nghè tháng tám để nói về những vị tiến sĩ hữu danh vô thực đương thời. Vẻ bề ngoài hào nhoáng, nghiêm trang chỉ để che giấu sự rỗng tuếch bên trong:
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh ấy cũng hời.
Đến hai câu luận, giá trị của ông nghè này bắt đầu có thể được cân đong đo đếm một cách chính xác. Cụm từ “sao mà nhẹ”, “ấy cũng hời” như một tiếng cười chua chát của tác giả trước bản chất thực sự của ông nghè. Có lẽ, để có được tấm thân “giáp bảng”, mặt “văn khôi” là điều rất dễ dàng, thậm chí có thể mua được với “giá hời”. Câu thơ không chỉ có sự mỉa mai, chế giễu mà còn ẩn chứa nỗi xót xa, ngậm ngùi cay đắng của tác giả trước hiện thực đáng buồn đang bày ra trước mắt.
Sáu câu thơ trên như điểm tựa để nhà thơ tạo nên bước đột phá ở hai dòng thơ cuối:
Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.
Hai câu thơ tiếp tục lột tả sự đối lập giữa vẻ bề ngoài với bản chất thật sự bên trong của ông tiến sĩ. “Ghế chéo lọng xanh” tạo ấn tượng về vẻ ngoài oai vệ của người có học thức được cho là cao nhất thời bấy giờ. Thế nhưng, tác giả “nâng” nhân vật ấy lên chỉ để giáng đòn thật đau ở câu thơ cuối. Hai tiếng “bảnh chọe” tạo nên sự mỉa mai, giễu cợt gay gắt, đẩy nhân vật về đúng vị trí của nó – chỉ là thứ “đồ chơi”. Hóa ra cái thứ ngồi bảnh chọe, oai phong lẫm liệt với cân đai, mũ mão, với bảng vàng đề tên ấy chỉ là một con rối để người khác tha hồ giật dây, cũng giống như triều đình phong kiến bù nhìn lúc bấy giờ cũng là một con rối, một thứ “hàng mã” để lũ thực dân điều khiển.
Nguyễn Khuyến chọn thành phần ưu tú nhất đương thời để mỉa mai, chế giễu. Đến tầng lớp tinh hoa còn trở thành kẻ bù nhìn thì hệ thống chính quyền phong kiến ấy còn đâu sự oai nghiêm vốn có? Đằng sau tiếng cười mỉa mai ấy, độc giả có thể cảm nhận được cả sự xót xa của tác giả trước vận nước.
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú nhưng lại không có điển cố, điển tích mà chứa rất nhiều khẩu ngữ. Giọng điệu, ngôn ngữ tự nhiên, thế tục thay thế hoàn toàn cho tính ước lệ của Đường thi. Điều này làm cho bài thơ trở nên gần gũi và giàu giá trị hiện thực hơn. Thông qua việc vẽ lên hình ảnh đối lập giữa “tiến sĩ giấy” và “tiến sĩ thật”, tác giả đã làm nổi bật sự lố bịch, giả dối của những kẻ không có thực tài nhưng lại được đặt lên ngôi ở vị trí cao, khiến cho tiếng cười bật ra đầy chua xót.
“Tiến sĩ giấy” là một bài thơ hay, tiêu biểu cho phong cách thơ trào phúng của cụ Tam nguyên Yên Đổ. Bài thơ đã mang đến cho người đọc những suy nghĩ sâu sắc về cái danh và cái thực, về thái độ độ cần có của người có học trong thời cuộc: sống ở đời đừng chạy theo hư danh, hãy xem bản thân làm được gì có ích; người được học hành phải học thật, thi thật, phải sống sao để không trở thành kẻ vô tích sự.
Hy vọng dàn ý và những hướng dẫn viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học (thơ trào phúng) lớp 8 ở trên đã giúp các em nắm vững cách thức khai thác giá trị của tiếng cười trong thơ, từ đó thấy rõ tài năng nghệ thuật và tấm lòng nhân ái của nhà thơ.