Dưới đây là bài soạn văn Buổi tiễn đưa (trích Chinh phụ ngâm) lớp 9 ngắn nhất nhưng vẫn đầy đủ ý. Bài soạn sẽ giúp các em học sinh hiểu rõ hơn về ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm này cũng như cảm nhận được những nét độc đáo của thể thơ song thất lục bát cũng như phong cách sáng tác của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm.
Mời các em tham khảo!
I. Khái quát chung về tác giả và tác phẩm Chinh phụ ngâm
1. Tác giả
1.1. Đặng Trần Côn
– Đặng Trần Côn sống vào khoảng thế kỉ XVIII ở làng Nhân Mục (làng Mọc), nay thuộc quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ông đỗ Hương cống, làm đến chức Ngự sử đài chiếu khám.
– Sáng tác của Đặng Trần Côn thường tập trung vào những tình cảm riêng tư, những nỗi niềm trắc ẩn của con người.

1.2. Đoàn Thị Điểm
– Đoàn Thị Điểm (1705 – 1748) hiệu là Hồng Hà nữ sĩ, quê ở Hưng Yên, là một tác giả nữ nổi tiếng của văn học trung đại.
– Bà sáng tác cả chữ Hán và chữ Nôm, trong đó có một số tác phẩm vẫn còn lưu truyền đến ngày nay như Truyền kì tân phả, Nữ trung tùng phận,…

2. Văn bản Chinh phụ ngâm
– Chinh phụ ngâm khúc (Khúc ngâm của người vợ có chồng ra trận) do Đặng Trần Côn sáng tác bằng chữ Hán. Sau đó được Đoàn Thị Điểm diễn Nôm gồm 408 câu song thất lục bát.
– “Chinh phụ ngâm khúc” là nỗi nhớ thương, sầu muộn của người vợ có chồng ra trận. Cả bản chữ Hán và bản chữ Nôm đều được đánh giá là kiệt tác của văn học Việt Nam thời kì trung đại.
– Văn bản trong sách giáo khoa thể hiện sự lưu luyến của người chinh phu và người chinh phụ lúc chia tay.
– Bố cục văn bản (gồm 3 phần):
+ Phần 1 (12 câu đầu): Tâm trạng của người chinh phu trong buổi chia tay.
+ Phần 2 (28 câu tiếp theo): Tâm trạng của người chinh phụ trong buổi tiễn đưa.
+ Phần 3 (12 câu cuối): Tâm trạng của người chinh phụ sau phút chia li.

II. Soạn văn Buổi tiễn đưa
1. Đặc điểm thể thơ song thất lục bát trong văn bản
– Văn bản chia làm 4 khổ thơ viết theo thể thơ song thất, lục bát: hai câu 7 tiếng, xen với một cặp lục bát.
– Văn bản gieo vần lưng và vần chân: Tiếng thứ năm của câu 7 tiếng sau hiệp vần với chữ thứ bảy của câu 7 tiếng trước đó; tiếng thứ sáu của câu 6 hiệp vần với tiếng thứ sáu của câu 8:
Ngòi đầu cầu nước trong như lọc,
Đường bên cầu cỏ mọc còn non.
Đưa chàng lòng dằng dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa thủy khôn bằng thuyền
– Thanh điệu của văn bản tuân thủ theo đúng quy định của thể thơ:
+ Câu thất thứ 1: chữ thứ năm thanh bằng; chữ thứ bảy thanh trắc
+ Câu thất thứ 2: chữ thứ ba thanh bằng; chữ thứ năm thanh trắc; chữ thứ bảy thanh bằng.
+ Câu lục bát: tuân theo quy luật của thể thơ lục bát.
– Cách ngắt nhịp: câu thất chủ yếu là ngắt nhịp 3/4; câu lục ngắt nhịp 2/2; câu bát ngắt nhịp 4/4.
2. Đọc hiểu nội dung văn bản
2.1. Tâm trạng của người chinh phu trong buổi tiễn đưa
– Chàng chinh phu mang theo khát vọng lập được công danh hiển hách để có thể “thành liền mong tiến bệ rồng”. Đó là ý chí chung của bậc quân tử trong thời kì đất nước loạn lạc.
– Làm trai thời loạn thì “dòng hào kiệt” phải xông pha trận mạc, sẵn sàng chiến đấu và chấp nhận hi sinh vì nghiệp lớn:
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao.
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu.
– Người chinh phu quyết tâm ra chiến trường với khí thế thật oai hùng, nhưng chúng ta vẫn có thể cảm nhận được sự ngậm ngùi của chàng trước một thực tế: không biết sau buổi tiễn đưa ấy, có ngày được trở về hay không.
– Chàng chinh phu ra đi trong lòng còn bao bịn rịn, vương vấn. Dù biết chí làm trai gửi ngoài chiến trường vạn dặm nhưng nỗi niềm vợ bìu con ríu vẫn khó có thể thoát ra được.
Đường giong ruổi lưng đeo cung tiễn,
Buổi tiễn đưa lòng bận thê hoa.
Bóng cờ tiếng trống xa xa,
Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng.
– Bằng những hình ảnh ước lệ cùng những điển cố, điển tích, tác giả đã khắc họa hình ảnh chàng chinh phu với hai tâm trạng gần như đối lập. Đằng sau vẻ quyết tâm, hào sảng và oai hùng để thực hiện “chí làm trai” là nỗi vấn vương, thương nhớ, bịn rịn không nỡ dứt với vợ con.
2.2. Tâm trạng của người chinh phụ
a. Tâm trạng người chinh phụ trong buổi tiễn đưa
Tiễn đưa chồng ra trận, người chinh phụ mang trong lòng nỗi buồn kéo dài đến vô tận. Nỗi buồn “dằng dặc” ấy không gì có thể khỏa lấp được.
Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
Đường bên cầu cỏ mọc còn non
Đưa chàng lòng dằng dặc buồn,
Bộ khôn bằng ngựa thủy khôn bằng thuyền.
Nước có chảy mà phiền chẳng rửa,
Cỏ có thơm mà dạ chẳng khuây.
Nhủ rồi nhủ lại cầm tay,
Bước đi một bước dây dây lại dừng.
– Nàng lưu luyến không muốn rời xa. Nỗi nhớ trào dâng ngay cả khi tay vẫn trong tay. Những dự cảm bất an trong buổi chia tay khiến cho chinh phụ quyến luyến, vương vấn không nỡ rời bước. Nàng cứ nhắc đi nhắc lại những câu nói yêu thương, những lời dặn dò mà thấy vẫn như chưa đủ.
– Trong khi người chinh phu ra đi mang theo khát vọng lập được công lớn, tạo nên sự nghiệp công danh thì người chinh phụ mang theo nỗi nhớ thương, dõi theo từng bước đi của chàng. “Lòng thiếp tựa bóng trăng theo dõi”.
– Tâm trạng nặng trĩu nỗi buồn nhưng người chinh phụ vẫn chấp nhận để chồng thực hiện khao khát xây dựng công danh sự nghiệp của mình. Điều đó cho thấy sự bao dung và tình yêu thương mà người chinh phụ dành cho chồng.
– Dù có lưu luyến đến đâu thì giờ phút chia li cũng đã điểm. Hình ảnh đoàn quân ào ào tiến về phía trước khiến lòng người ở lại ngậm ngùi:
Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay.
Hà lương chia rẽ đường này,
Bên đường trông bóng cờ bay ngùi ngùi.
Quân đưa chàng ruổi lên đường,
Liễu dương biết thiếp đoạn trường này chăng?
b. Tâm trạng của người chinh phụ sau phút chia li
– Khi bóng chàng đã khuất, nỗi buồn xâm chiếm tâm hồn chinh phụ. Nỗi cô đơn ngập tràn nơi khuê phòng làm trái tim nàng héo úa:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh
+ Phép đối: “chàng đi >< thiếp về”; “cõi xa mưa gió >< buồng cũ chiếu chăn” nhấn mạnh cảnh chia li, sự cách biệt của hai người. Người chinh phụ lầm lũi một mình trong cảnh giường đơn gối chiếc.
– Tác giả nhắc đến điển tích đất Tiêu Tương gợi lên sự lo lắng, đau khổ của nàng khi người chồng đã cách biệt phương trời. Ở chốn sa trường ác liệt, biết chàng có được bình an? Nỗi thương nhớ, khắc khoải khiến nước mắt của nàng như máu tuôn ra từ khóe mắt như hai người vợ của vua Thuấn khóc chồng thuở nào.
Chốn Hàm Kinh chàng còn ngoảnh lại,
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang.
Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
– Kết thúc văn bản là một không gian mênh mông, ngập tràn một sắc xanh đơn điệu, buồn chán. Không gian càng rộng lớn mênh mông, lòng người càng trống trải cô đơn.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
+ Điệp ngữ vòng “ngàn dâu” kết hợp với các tính từ chỉ màu sắc “xan xanh”, “xanh ngắt” gợi lên tâm trạng buồn chán, quẩn quanh và bế tắc.
+ Câu hỏi tu từ cuối văn bản “Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?” cụ thể hóa nỗi cô đơn, buồn chán và lo lắng của người chinh phụ. Nỗi buồn ấy dường như đã kết thành khối, trĩu nặng trong tâm trí nàng.
>>> Tải bài soạn văn dưới dạng file PDF miễn phí tại đây!
III. Tổng kết
1. Nghệ thuật
– Thể thơ song thất lục bát và giọng thơ tha thiết, thể hiện tâm trạng của người chinh phụ khi tiễn biệt.
– Tác giả sử dụng nhuần nhuyễn các điển cố, điển tích, các hình ảnh ước lệ để thể hiện tâm trạng của nhân vật.
– Sử dụng thành công bút pháp tả cảnh ngụ tình và nhiều biện pháp tu từ như điệp ngữ, câu hỏi tu từ, ẩn dụ,…
2. Nội dung
Đoạn trích là tâm trạng buồn chán, lo lắng, nhớ nhung của người chinh phụ khi tiễn chồng ra chiến trường. Qua đó, độc giả có thể cảm nhận được nỗi chán ghét chiến tranh và khao khát có được một gia đình hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Kiến thức về Soạn văn lớp 9 được triển khai cực chi tiết và dễ hiểu trong cuốn Làm chủ kiến thức Ngữ Văn bằng sơ đồ tư duy lớp 9 – Luyện thi vào 10 phần 1: Đọc – Hiểu văn bản. Các em có thể mua sách về để tham khảo thêm nội dung này và các bài soạn văn khác nhé!
Link đọc thử sách: https://drive.google.com/file/d/1oRktCcLMCR0pFWRuTIYBdnULy3Iam5xx/view?usp=sharing
Tkbooks tự hào là nhà xuất bản sách tham khảo lớp 9 hàng đầu tại Việt Nam.