BÀI 24. VIỆT NAM TRONG NĂM ĐẦU SAU THẮNG LỢI CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ CỨU NƯỚC (1975 )
I. TÌNH HÌNH HAI MIỀN BẮC – NAM SAU NĂM 1975
* Miền Bắc: qua hơn 20 năm (1954 – 1975) tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, miền Bắc đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện, đã xây dựng được những cơ sở vật chất-kĩ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội. Nhưng cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của Mĩhết sức ác liệt, đã tàn phá nặng nề, gây hậu quả lâu dài đối với miền Bắc.
* Miền Nam
– Đã hoàn toàn giải phóng, nhưng cuộc chiến tranh của Mĩ đã gây ra hậu quả nặng nề. Nhiều làng mạc, đồng ruộng bị tàn phá, bỏ hoang, chất độc hóa học và bom mìn còn bị vùi lấp nhiều nơi , số người thất nghiệp lên tới hàng triệu người…
– Miền Nam có nền kinh tế trong chừng mực nhất định phát triển theo hướng tư bản, song về cơ bản vẫn mang tính chất của nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ và phân tán, phát triển mất cân đối, lệ thuộc nặng nề vào viện trợ từ bên ngoài.
II. Khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế – xã hội ở hai miền đất nước
* Miền Bắc
– Đến giữa năm 1976, miền Bắc hoàn thành khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế. Văn hóa, giáo dục, y tế phát triển mạnh.
– Thực hiện nghĩa vụ làm căn cứ địa cách mạng cả nước và nghĩa vụ quốc tế với Lào v à Campuchia.
* Miền Nam
– Tiến hành tiếp quản vùng giải phóng,thành lập chính quyền cách mạng và đoàn thể quần chúng.
– Tại các thành phố lớn như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng v.v., chính quyền cách mạng tuyên bố thành lập ngay sau khi được giải phóng hoàn toàn.
– Hàng triệu đồng bào được hồi hương, chuyển về nông thôn tham gia sản xuất hoặc đi xây dựng vùng kinh tế mới.
– Chính quyền cách mạng tịch thu toàn bộ tài sản và ruộng đất của bọn phản động, tuyên bố xoá bỏ quan hệ bóc lột phong kiến, tiến hành điều chỉnh ruộng đất trong nội bộ nông dân, quốc hữu hoá ngân hàng, thay đồng tiền cũ bằng đồng tiền mới của cách mạng.
– Chú trọng khôi phục sản xuất nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu cấp bách và lâu dài của nhân dân về lương thực. Các cơ sở sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp, cả những cơ sở bị gián đoạn quan hệ với nước ngoài, đều trở lại hoạt động.
– Văn hoá, giáo dục, y tế… được tiến hành khẩn trương từ những ngày đầu mới giải phóng.
III. HOÀN THÀNH THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC (1975 – 1976)
Là nhiệm vụ quan trọng trước mắt của cách mạng Việt Nam sau 1975.
1. Hoàn thành thống nhất đất nước
* Sau chiến thắng 1975, nguyện vọng của nhân dân cả nước là hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
– 9/1975 Hội nghị Trung ương Đảng lần 24 đề ra nhiệm vụ hoàn thành thống nhất đất nước về mặt nhà nước.
– Hội nghị hiệp thương Bắc – Nam (từ 15 đến 21/11/1975) tại Sài Gòn, nhất trí thống nhất hoàn toàn hai miền trong một Nhà nước chung.
* Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung (25/4/1976).
* Quốc hội thống nhất họp cuối tháng 6 đầu tháng 7/1976 đã:
– Lấy tên nước: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; thủ đôlà Hà Nội ; Quốc huy mang dòng chữ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Quốc kỳ là lá cờ đỏ sao vàng;Quốc ca là bài Tiến quân ca.
– Thành phố Sài Gòn – Gia Định đổi tên là Thành phố HCM.
– Bầu các cơ quan, chức vụ lãnh đạo cao nhất của Việt Nam thống nhất.
– 31/7/1977: Đại hội đại biểu các mặt trận ở hai miền Nam – Bắc họp tại TP. HCM quyết định thống nhất thành Mặt trận Tổ quốc VN.
– 18/12/1980: Quốc hội thông qua Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.
– 20/9/1977 Việt Nam là thành viên thứ 149 của Liên Hiệp Quốc.
2. Ý nghĩa
– Là yêu cầu tất yếu, khách quan của sự phát triển cách mạng Việt Nam.
– Thống nhất đất nước về mặt nhà nước đã thể chế hóa thống nhất lãnh thổ.
– Tạo cơ sở pháp lý để hoàn thành thống nhất đất nước trên các lãnh vực chính trị,tư tưởng,văn hóa.
– Tạo điều kiện chính trị cơ bản để phát huy sức mạnh toàn dân và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội và mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới.
Xem thêm: