Em hãy nêu những căn cứ để xác định Chuyện cổ tích về loài người là một bài thơ

Em hãy nêu những căn cứ để xác định Chuyện cổ tích về loài người là một bài thơ

“Em hãy nêu những căn cứ để xác định Chuyện cổ tích về loài người là một bài thơ” là yêu cầu dành cho các em học sinh lớp 6 khi tìm hiểu về thơ. 

Trong bài viết dưới đây, TKbooks sẽ gợi ý cho các em những căn cứ đó để các em có thể chuẩn bị bài tốt ở nhà cũng như hiểu thêm về khái niệm, đặc điểm và hình thức của một bài thơ.

Mời các em tham khảo!

>>> Xem thêm: Viết bài văn kể lại một truyền thuyết lớp 6 ngắn gọn kèm dàn ý chi tiết

I. Căn cứ để xác định Chuyện cổ tích về loài người là một bài thơ

Dựa vào khái niệm, đặc điểm và hình thức của thơ trong tài liệu cung cấp, chúng ta có thể xác định “Truyện cổ tích về loài người” là một bài thơ với các căn cứ sau:

1. Khái niệm về thơ:

Theo định nghĩa, thơ là một thể loại văn học thuộc phương thức biểu hiện trữ tình, phản ánh cuộc sống qua tâm trạng và cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhịp điệu. Xét về mặt này, bài “Chuyện cổ tích về loài người” thể hiện các yếu tố sau:

  • Tình cảm và suy nghĩ sâu sắc: Tác giả Xuân Quỳnh trong bài thơ bộc lộ tình cảm, sự suy tư về nguồn gốc và sự phát triển của loài người, đặc biệt tập trung vào trẻ em. Bài thơ không chỉ miêu tả cảnh vật thiên nhiên mà còn chứa đựng những cảm xúc ấm áp, nhẹ nhàng, thể hiện qua các hình ảnh như “trẻ con”, “mẹ”, “bố”, “biển”, “chim”,… Các yếu tố này góp phần tạo nên không gian gần gũi và tràn đầy yêu thương trong thơ.
  • Ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh: Ngôn ngữ trong bài thơ ngắn gọn, cô đọng và rất giàu tính hình ảnh. Ví dụ như các cụm từ: “mắt trẻ con sáng lắm”, “tiếng hót trong bằng nước”, “biển sinh ý nghĩ”,… đều tạo nên hình ảnh sống động và có ý nghĩa sâu xa. Đây là cách mà thơ phản ánh cuộc sống thông qua những biểu tượng phong phú.

2. Đặc điểm của thơ:

  • Nhân vật trữ tình: Trong bài thơ, nhân vật trữ tình chính là trẻ em – đại diện cho sự trong sáng, hồn nhiên và là khởi nguồn của sự sống. Tác giả thông qua trẻ em để bộc lộ suy nghĩ về thế giới và thiên nhiên xung quanh. Mặc dù tác giả Xuân Quỳnh không trực tiếp xuất hiện trong bài thơ, nhưng “cái tôi trữ tình” của tác giả được hóa thân qua giọng thơ nhẹ nhàng, đầy yêu thương đối với trẻ em.
  • Ý nghĩa khái quát về cuộc đời: Bài thơ không chỉ đơn thuần kể về sự hình thành của thế giới và con người, mà còn truyền tải thông điệp nhân văn sâu sắc về tình yêu, sự che chở và giáo dục dành cho trẻ em. Từ đó, bài thơ hướng đến khái quát về tình yêu thương và sự đồng hành của gia đình trong cuộc sống.

3. Hình thức của thơ:

  • Cấu trúc ngôn ngữ đặc biệt: Bài thơ có sự sắp xếp các dòng thơ không theo khuôn khổ chặt chẽ, tuân theo thể thơ tự do, cho phép tác giả thoải mái trong việc biểu đạt cảm xúc. Mỗi câu thơ ngắn gọn, được sắp xếp xen kẽ, ngắt nhịp tạo nên sự uyển chuyển và nhịp nhàng trong cách diễn đạt.
  • Nhịp điệu và âm điệu: Bài thơ có sự lặp lại các âm thanh, nhịp điệu linh hoạt giữa các câu thơ, tạo ra tính nhạc trong thơ. Ví dụ, các câu như “Mặt trời mới nhô cao / Cho trẻ con nhìn rõ / Màu xanh bắt đầu cỏ / Màu xanh bắt đầu cây” có nhịp điệu nhẹ nhàng, hài hòa, mang tính tự nhiên. Điều này phù hợp với đặc điểm của thơ, khi nhịp ngắt câu và cách gieo vần tạo nên nhạc điệu trong từng dòng thơ.
  • Biện pháp tu từ: Tác giả sử dụng nhiều biện pháp tu từ như so sánh (“tiếng hót trong bằng nước”), nhân hóa (“biển sinh ý nghĩ”), điệp ngữ (“Màu xanh bắt đầu cỏ / Màu xanh bắt đầu cây”),… Những biện pháp này không chỉ giúp tạo hình ảnh mà còn nhấn mạnh ý nghĩa trong từng chi tiết nhỏ của bài thơ.

4. Ngôn ngữ thơ:

Ngôn ngữ hàm súc và biểu tượng: Ngôn ngữ trong bài thơ ngắn gọn nhưng đầy sức gợi. Các hình ảnh trong bài như mặt trời, biển, cây cỏ, trẻ con, bố mẹ đều mang tính biểu tượng, khơi gợi những liên tưởng sâu sắc trong tâm trí người đọc. Các chi tiết tưởng như giản dị nhưng lại chất chứa thông điệp lớn về tình yêu thương, sự che chở của thiên nhiên và gia đình đối với sự phát triển của trẻ em.

Tóm lại, với tất cả các yếu tố về khái niệm, đặc điểm và hình thức, chúng ta có thể xác định rằng “Chuyện cổ tích về loài người” là một bài thơ theo đúng chuẩn mực của thể loại thơ.

II. Văn bản “Chuyện cổ tích về loài người”

Trời sinh ra trước nhất

Chỉ toàn là trẻ con

Trên trái đất trụi trần

Không dáng cây ngọn cỏ

Mặt trời cũng chưa có

Chỉ toàn là bóng đêm

Không khí chỉ màu đen

Chưa có màu sắc khác

Mắt trẻ con sáng lắm

Nhưng chưa thấy gì đâu!

Mặt trời mới nhô cao

Cho trẻ con nhìn rõ

Màu xanh bắt đầu cỏ

Màu xanh bắt đầu cây

Cây cao bằng gang tay

Lá cỏ bằng sợi tóc

Cái hoa bằng cái cúc

Màu đỏ làm ra hoa

Chim bấy giờ sinh ra

Cho trẻ nghe tiếng hót

Tiếng hót trong bằng nước

Tiếng hót cao bằng máy

Những làn gió thơ ngây

Truyền âm thanh đi khắp

Muốn trẻ con được tắm

Sông bắt đầu làm sống

Sông cần đến mênh mông

Biển có từ thuở đó

Biển thì sinh ý nghĩ

Biển sinh cá sinh tôm

Biển sinh những cánh buồm

Cho trẻ con đi khắp

Đám mây cho bóng rợp

Trời nắng mây theo che

Khi trẻ con tập đi

Đường có từ ngày đó

Nhưng còn cần cho trẻ

Tình yêu và lời ru

Cho nên mẹ sinh ra

Để bế bồng chăm sóc

Mẹ mang về tiếng hát

Từ cái bống cái bang

Từ cái hoa rất thơm

Từ cánh cò rất trắng

Từ vị gừng rất đẳng

Từ vết lấm chưa khô

Từ đầu nguồn cơn mưa

Từ bãi sông cát vắng.

Biết trẻ con khao khát

Chuyện ngày xưa, ngày sau

Không hiểu là từ đâu

Mà bà về ở đó

Kể cho bao chuyện cổ

Chuyện con cóc, nàng tiên

Chuyện cô Tấm ở hiền

Thằng Lý Thông ở ác

Mái tóc bà thì bạc

Con mắt bà thì vui

Bà kể đến suốt đời

Cũng không sao hết chuyện.

Muốn cho trẻ hiểu biết

Thế là bố sinh ra

Bố bảo cho biết ngoan

Bố dạy cho biết nghĩ

Rộng lắm là mặt bể

Dài là con đường đi

Núi thì xanh và xa

Hình tròn là trái đất

Và sinh ra thầy giáo

Cái bảng bằng cái chiếu

Cục phấn từ đá ra

Thầy viết chữ thật to:

“Chuyện loài người” trước nhất.

III. Tìm hiểu về thơ

1. Khái niệm

Thơ là một thể loại văn học thuộc phương thức biểu hiện trữ tình. “Thơ là hình thức sáng tác văn học phản ánh cuộc sống, thể hiện những tâm trạng những cảm xúc mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và nhất là có nhịp điệu” (Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG, H, 1999).

2. Đặc điểm

2.1. Nội dung

– Nội dung cơ bản của thơ là tình cảm, cảm xúc, suy tưởng của nhà thơ trước cuộc sống.

– Để biểu lộ cảm xúc, nhà thơ thường xây dựng nhân vật trữ tình (cũng gọi là chủ thể trữ tình, cái tôi trữ tình). Nhân vật trữ tình là người trực tiếp thổ lộ suy nghĩ, cảm xúc, tâm trạng trong tác phẩm. Nhân vật trữ tình là con người đồng dạng của tác giả, nhưng không thể đồng nhất nhân vật trữ tình với tác giả mà chỉ có thể coi đó là một con người mà tác giả hóa thân để bộc lộ tình cảm cảm xúc của mình trước cuộc sống.

– Thơ tuy biểu hiện những cảm xúc, suy tưởng riêng tư nhưng những tác phẩm thơ chân chính bao giờ cũng mang ý nghĩa khái quát về con người, về cuộc đời.

2.2. Hình thức

– Mỗi bài thường được sáng tác theo một thể thơ nhất định với những đặc điểm riêng về số tiếng.

– Về cấu trúc: mỗi bài thơ có một cấu trúc ngôn ngữ đặc biệt. Sự sắp xếp các dòng (câu) thơ, khổ thơ, đoạn thơ làm nên một hình thức có tính tạo hình. Đồng thời, sự hiệp vần, xen phối bằng trắc, cách ngắt nhịp vừa thống nhất, vừa biến hóa tạo nên tính nhạc điệu. Hình thức ấy làm nên vẻ đẹp nhịp nhàng, trầm bổng, luyến láy của văn bản thơ.

+ Vần là phương tiện tạo tính nhạc và tính liên kết trong một dòng thơ và giữa các dòng thơ, dựa trên sự lặp lại phần vần của tiếng ở những vị trí nhất định. Vẫn được gieo cuối dòng thơ gọi là vần chân. Vẫn được gieo giữa dòng thơ gọi là vần lưng.

+ Nhịp là điểm ngừng ngắt khi đọc một dòng thơ góp phần tạo sự hài hòa cho thơ và giúp hiểu đúng ý nghĩa của dòng thơ.

+ Thanh điệu là thanh tính của âm tiết. Thanh điệu chia thành hai nhóm: thanh điệu cao (thanh ngang, thanh sắc, thanh ngã), thanh điệu thấp (thanh huyền, thanh hỏi, thanh nặng).

+ Ngôn ngữ thơ chủ yếu là ngôn ngữ của nhân vật trữ tình, là ngôn ngữ hình ảnh, biểu tượng. Ngôn ngữ thơ có các đặc điểm: hàm súc, giàu nhạc điệu, hình ảnh. Ngôn ngữ thơ thể hiện những rung động, suy tư của người viết. Ý nghĩa mà văn bản thơ muốn biểu đạt thường không được thông báo trực tiếp, đầy đủ qua lời thơ, mà do tứ thơ, giọng điệu, hình ảnh, biểu tượng thơ gợi lên. Do đó ngôn ngữ thơ thiên về khơi gợi, giữa các câu thơ có nhiều khoảng trống, những chỗ không liên tục gợi ra nhiều nghĩa, đòi hỏi người đọc phải chủ động, liên tưởng, tưởng tượng.

– Trong mỗi tác phẩm thơ thường sử dụng nhiều biện pháp tu từ (so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, điệp ngữ…)

Hi vọng gợi ý về những căn cứ để xác định Chuyện cổ tích về loài người là một bài thơ ở trên sẽ giúp các em chuẩn bị bài thật tốt và đạt điểm cao hơn trong môn Ngữ Văn trên lớp.

Đừng quên Tkbooks có bộ sách Làm chủ kiến thức Ngữ Văn bằng sơ đồ tư duy lớp 6 cực chất lượng giúp các em củng cố kiến thức cũng như nâng cao điểm số của mình ở trên lớp. Hãy mua sách và luyện tập ngay từ bây giờ để không bỏ lỡ những cơ hội học tập tuyệt vời các em nhé!

Link đọc thử và mua sách với giá cực ưu đãi: https://lamchu.tkbooks.vn/lop6

Tkbooks tự hào là nhà xuất bản sách tham khảo lớp 6 hàng đầu tại Việt Nam!

Tkbooks.vn

Share

Một suy nghĩ về “Em hãy nêu những căn cứ để xác định Chuyện cổ tích về loài người là một bài thơ

  1. Pingback: Soạn bài Mây và Sóng lớp 6 ngắn gọn theo yêu cầu của SGK

  2. Pingback: Trả lời câu hỏi bài Chuyện cổ tích về loài người lớp 6 trang 43

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *